Mở cửa các ngày từ Thứ 3 – Chủ Nhật hàng tuần. Buổi sáng từ 7h30 - 12h00. Buổi chiều từ 13h30 - 16h30
Thư mục Quảng Ninh qua báo chí

Thư mục: “Quảng Ninh qua báo chí Trung ương” tháng 11+12/2016

Ngày 06-01-2017 Lượt xem: 134

Quảng Ninh nằm ở địa đầu phía đông bắc Việt Nam, là tỉnh miền núi, trung du nằm ở vùng duyên hải Bắc Bộ với hơn 80% đất đai là đồi núi. Trong đó, có hơn hai nghìn hòn đảo nổi trên mặt biển, là vùng đất lịch sử lâu đời. Ở khu vực Vịnh Hạ Long đã khảo cổ được di chỉ của người tiền sử từ 3000 - 1500 năm TCN. Là một trọng điểm kinh tế, một đầu tàu của vùng kinh tế trọng điểm phía bắc đồng thời là một trong bốn trung tâm du lịch lớn của Việt Nam với di sản thiên nhiên thế giới vịnh Hạ Long đã hai lần được UNESCO công nhận về giá trị thẩm mĩ và địa chất, địa mạo.

 

    Con người và xã hội Quảng Ninh là nơi hội tụ, giao thoa, sự thống nhất trong đa dạng của nền văn minh sông Hồng, có truyền thống cách mạng của giai cấp công nhân Vùng Mỏ với “di sản” tinh thần vô giá “kỷ luật và đồng tâm”. Đây là điều kiện thuận lợi xây dựng khối đoàn kết, tạo sức mạnh tổng hợp để vượt qua mọi khó khăn, thách thức; góp phần xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong bất kỳ hoàn cảnh nào.

    Để cập nhật thông tin mới nhất về tỉnh Quảng Ninh. Bắt đấu từ tháng 8 năm 2014. Thư viện tỉnh Quảng Ninh biên soạn thư mục: “Quảng Ninh qua báo chí Trung ương “ theo định kỳ 2 tháng 1 số, các bài báo được cập nhật trên các trang thông tin điện tử và được sắp xếp theo các chủ đề: Chính trị, văn hóa, xã hội, kinh tế…

   Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc Thư mục: “Quảng Ninh qua báo chí Trung ương” tháng 11+12/2016.                                                

1. Lê Hoàng Linh. Khơi dậy tiềm năng vận tải đường thủy//http://www.nhandan.com.vn.- 2016.- Ngày 6 tháng 11

Trong hai năm gần đây, chủ trương của Bộ Giao thông vận tải (GTVT) về tái cơ cấu vận tải và sự đầu tư cho vận tải đường thủy nội địa đã mang lại hiệu quả tăng thị phần vận tải, tạo đà khơi dậy tiềm năng của vận tải đường thủy vốn đang bị bỏ ngỏ bấy lâu nay.

Kết nối ba miền

Tháng 7 vừa qua đánh dấu hai năm tuyến vận tải ven biển dành cho phương tiện thủy nội địa cấp VR-SB (tàu sông pha biển) đầu tiên Quảng Ninh - Quảng Bình được công bố và đi vào khai thác. Ngay sau khi tuyến đầu tiên được mở ba tháng, Bộ GTVT lần lượt mở mới các chặng như Quảng Bình - Bình Thuận, Bình Thuận - Kiên Giang, tạo thành trục vận tải kết nối các con sông chính ở ba miền bắc - trung - nam. Cục trưởng Đường thủy nội địa Việt Nam Hoàng Hồng Giang cho biết, ban đầu mở tuyến, chỉ có vài chục phương tiện tham gia, đến nay đã có hơn 1.100 phương tiện mang cấp VR - SB được đăng ký, trong đó gần 900 tàu vận tải đang hoạt động trên tuyến ven biển nối ba miền, với 28 tàu chuyên chở công-ten-nơ. Ước tính, số khối lượng hàng hóa vận chuyển trên tuyến ven biển đã vượt mốc 11 triệu tấn. “Sự gia tăng nhanh chóng của phương tiện trên tuyến vận tải ven biển cho thấy chủ trương mở tuyến vận tải ven biển của Bộ GTVT đã tạo sự đột phá cho ngành vận tải thủy nội địa, giúp vận tải thủy tăng sức cạnh tranh với các lĩnh vực khác, giảm tải cho đường bộ và góp phần giảm giá thành vận tải, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội”, Cục trưởng Hoàng Hồng Giang chia sẻ.

Anh Nguyễn Trung, Đội trưởng vận tải, Công ty Xi-măng Hoàng Long (Hà Nam) cho biết: Hàng hóa của công ty trước đây vận chuyển đi các tỉnh chủ yếu bằng ô-tô, nhưng hơn một năm trở lại đây, khi các cơ quan chức năng kiểm soát mạnh mẽ xe quá tải, công ty đã chuyển dần sang vận chuyển bằng đường thủy. Chúng tôi nhận thấy, vận chuyển bằng đường bộ có giá thành cao gấp bốn lần so với đường thủy. Khi vận chuyển bằng đường thủy, doanh nghiệp tiết kiệm được khoảng 30 triệu đồng/tháng. Theo đánh giá của Cục Đường thủy nội địa Việt Nam, định hướng tái cơ cấu vận tải của Bộ GTVT và sự nỗ lực của các đơn vị trong ngành, địa phương và doanh nghiệp đã mang lại khởi sắc rõ rệt trong vận tải hàng hóa bằng đường thủy. Đến nay, đường thủy chiếm khoảng 18% thị phần vận tải hàng hóa toàn ngành GTVT và đạt tốc độ tăng trưởng trung bình về vận chuyển 4,85%/năm ở phía bắc, 6,4% ở miền trung và 8,7% ở khu vực phía nam.

Sau 60 năm thành lập và phát triển, ngành GTVT đường thủy đang bước vào giai đoạn đổi mới rõ nét, thu hút sự quan tâm đầu tư của doanh nghiệp vận tải. Đường thủy đang hình thành xu hướng đầu tư phương tiện vận tải cỡ lớn, vận tải công-ten-nơ, kết nối mạnh mẽ với hàng hải, đường bộ và tham gia chuỗi logistics,… Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần Vận tải thủy Tân Cảng Lê Hoàng Linh - đơn vị có thị phần vận tải bằng xà-lan lớn nhất hiện nay - cho biết, phương thức vận tải công-ten-nơ bằng xà-lan là phương thức mới hình thành khoảng mười năm trở lại đây nhưng tỏ ra có ưu thế rõ nét, phát triển khá ấn tượng. Năm 2015, sản lượng đạt 1,5 triệu TEUs (tương đương 21 triệu tấn hàng hóa). Phương thức này đóng vai trò ngày càng quan trọng trong chuỗi cung ứng dịch vụ logistics. Với sự phát triển của ngành logistics vận tải thủy trong thời gian qua và định hướng phát triển vận tải đường thủy của Chính phủ cũng như Bộ GTVT, đã cho thấy vai trò quan trọng của loại hình dịch vụ này ngày càng được nhiều doanh nghiệp xuất nhập khẩu hàng hóa quan tâm và khai thác hiệu quả.

Tháo gỡ vướng mắc

Theo Thứ trưởng GTVT Lê Đình Thọ, định hướng tái cơ cấu vận tải mà ngành GTVT triển khai trong thời gian qua đã phần nào mang lại sự thay đổi tích cực cho lĩnh vực vận tải thủy. Tuy nhiên, đường thủy cần có sự thay đổi mạnh mẽ hơn nữa để khai thác tốt hơn tiềm năng, thế mạnh của vận tải giá rẻ, bền vững và thân thiện với môi trường. Để làm được điều này, cần tạo được sự kết nối thuận lợi giữa phương thức vận tải đường thủy với đường bộ, đường sắt, cảng biển và hình thành sự liên thông luồng tuyến giữa các vùng, miền; đồng thời, gỡ bỏ các rào cản đầu tư, thủ tục hành chính liên quan để tạo thuận lợi nhất cho doanh nghiệp đầu tư hạ tầng luồng tuyến, kinh doanh vận tải. Tuy nhiên, đại diện một số doanh nghiệp cho biết, vẫn còn nhiều bất cập trong vấn đề như phí lai dắt phương tiện thủy vào cảng biển cao, quy định số lượng định biên thuyền viên tàu VR - SB nhiều hơn mức cần thiết,…

Cục Đường thủy nội địa Việt Nam đã nhận diện những hạn chế, bất cập gây cản trở vận tải thủy, tiếp thu các ý kiến đóng góp của doanh nghiệp và đang triển khai quyết liệt các giải pháp trước mắt cũng như lâu dài nhằm thu hút đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho doanh nghiệp kinh doanh vận tải thủy. Từ tháng 4-2016, Cục Đường thủy nội địa Việt Nam đã chính thức thí điểm cấp phép cho tàu vào cảng qua tin nhắn, nhằm tạo thuận lợi tối đa cho doanh nghiệp vận tải và người dân về thủ tục, thời gian lưu thông qua cảng, bến thủy nội địa, thời gian di chuyển từ kho, bãi hàng đến cảng vụ. Các doanh nghiệp nêu nguyện vọng, đường thủy cần được quan tâm đầu tư hơn nữa về hạ tầng và giảm bớt các điều kiện, thủ tục hành chính liên quan. Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần Thương mại vận tải biển Trường Lộc Lê Minh Huấn chia sẻ, ngoài việc thiếu kết nối giữa các phương thức vận tải, giá cước đi bằng đường thủy vẫn cao do phải thêm khâu bốc dỡ lên, xuống. Chi phí cho bốc dỡ chiếm 3% đối với công-ten-nơ, nếu hàng rời có khi lên tới 5%.

Theo Cục Đường thủy nội địa Việt Nam, hiện nay, giá cước vận tải đường thủy nội địa thuộc diện thấp nhất, chỉ bằng 25 đến 30% so với đường bộ và rất thích hợp cho việc vận chuyển hàng công-ten-nơ. Đơn cử, giá cước một công-ten-nơ loại 40 phít từ cảng Hải Phòng lên Việt Trì (Phú Thọ) nếu bằng đường bộ, giá cước 9 đến 10 triệu đồng, cộng các chi phí cầu đường có thể lên tới 12 triệu đồng, trong khi đi đường thủy chỉ khoảng 4,5 triệu đồng (gồm các loại thuế, phí),… Hình thức vận tải đường thủy nội địa ngày càng được nhiều doanh nghiệp vận tải quan tâm bởi giá cước hợp lý, vận chuyển an toàn và thủ tục hành chính linh hoạt. Mặc dù nước ta có hệ thống sông ngòi dày đặc, thuận lợi cho phát triển giao thông đường thủy nhưng trước đây, có đến 90% lượng hàng hóa vận chuyển bằng đường bộ. Mỗi năm, ngân sách nhà nước phải chi hàng chục nghìn tỷ đồng để đầu tư hạ tầng đường bộ, trong khi đường thủy chưa được phát huy.

Hiện nay, ngoài tuyến vận tải thủy ven biển, nhiều tuyến mới đã có sự khởi sắc đáng kể như các tuyến vận tải công-ten-nơ từ đồng bằng sông Cửu Long - Cam-pu-chia, Hải Phòng - Việt Trì, Hạ Long - Móng Cái,... Cục Đường thủy nội địa Việt Nam tiếp tục đề xuất cho mở thêm các tuyến vận tải thủy từ Việt Nam đi Cam-pu-chia, Trung Quốc; nâng cấp các tuyến đường thủy nội địa trọng điểm như hành lang duyên hải, TP Hồ Chí Minh - Cà Mau, Quảng Ninh - Móng Cái… Đồng thời, thiết lập đường dây nóng để tiếp nhận ý kiến phản ánh của doanh nghiệp, người dân và ban hành hơn 50 văn bản chỉ đạo, điều hành tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong giải quyết thủ tục hành chính, tạo thuận lợi và giảm chi phí cho người dân và doanh nghiệp tham gia vận tải đường thủy.

Thời gian qua, việc đưa các phương tiện xà-lan có tải trọng lớn vào khai thác còn hạn chế. Có những tuyến luồng tuy nguồn công-ten-nơ và hàng hóa nhiều, ổn định, song vẫn phải sử dụng xà-lan tải trọng nhỏ để khai thác. Nguyên nhân do một số tuyến luồng hạn chế về tĩnh không, bãi bồi, luồng hẹp và thậm chí bị cạn, luồng bị các công trình dân dụng lấn chiếm. Vì vậy việc đầu tư nâng cấp các công trình giao thông thủy và tăng năng lực thông qua của các tuyến luồng là nhu cầu cấp thiết trong giai đoạn hiện nay.

 

2. Nguyễn Ngọc Cơ. Ngành than nỗ lực hướng tới tăng trưởng xanh//http://www.nhandan.com.vn.- 2016.- Ngày 7 tháng 11

Theo Quy hoạch phát triển ngành than đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, đến năm 2020, ngành than sẽ trở thành ngành công nghiệp phát triển, có sức cạnh tranh cao, đạt trình độ công nghệ tiên tiến so với khu vực ở tất cả các khâu thăm dò, khai thác, sàng tuyển, chế biến,... Để bảo đảm sản lượng than khai thác đạt 47 đến 50 triệu tấn năm 2020; 51 đến 54 triệu tấn năm 2025 và 55 đến 57 triệu tấn vào năm 2030, việc ứng dụng khoa học - công nghệ mới vào khai thác, chính là “chìa khóa” giúp ngành than thành công.

Những công trình mới

Ngày 3-11 vừa qua, Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) đã gắn biển công trình chào mừng kỷ niệm 80 năm Ngày Truyền thống công nhân vùng mỏ - Truyền thống ngành than (12-11-1936 – 12-11-2016) cho hệ thống băng tải than Lép Mỹ - cảng Km 6 (Cẩm Phả, Quảng Ninh). Đây là công trình trọng điểm của TKV, hoàn thành sau một năm thi công với mức đầu tư 651 tỷ đồng, công suất 720 tấn/giờ (khoảng 2,7 triệu tấn/năm). Hệ thống có chiều dài toàn tuyến hơn 4,5 km, trong đó, có hơn 1,8 km trong lò tuy-nen xuyên lòng núi, qua các khu vực đông dân cư và quốc lộ 18, song đã được các đơn vị liên quan của ngành than hoàn thành đúng tiến độ, bảo đảm an toàn, chất lượng.

Đưa vào sử dụng tuyến băng tải kín này, ngành than đã thay thế được 300 lượt xe ô-tô loại trọng tải 20 tấn, hoạt động suốt ngày đêm trên đường, chấm dứt cảnh bụi bặm mịt mù, than rơi vãi như trước đây. Bên cạnh đó, TKV cũng đưa vào sử dụng công trình Nhà máy sàng - tuyển than Lép Mỹ với mức đầu tư hơn 870 tỷ đồng, công suất 2,5 triệu tấn/năm, phục vụ sàng tuyển than nguyên khai vận chuyển từ mỏ Khe Tam của Công ty than Dương Huy; đồng thời vẫn tiếp tục sử dụng hệ thống sàng tuyển 1,5 triệu tấn/năm hiện có của Công ty than Quang Hanh đã đầu tư trước đó.

Nhà máy sàng - tuyển này có dây chuyền công nghệ hiện đại, sử dụng ít lao động, năng suất, chất lượng cao, xây dựng ở vị trí xa đô thị, ngoài đáp ứng sàng tuyển cho hai mỏ Dương Huy và Quang Hanh, công suất dư còn phục vụ cho cả vùng than Ngã Hai - Khe Tam. Cụm cảng Km 6 - Cẩm Phả cũng được cải tạo (giai đoạn 1), mở rộng mặt bằng cảng lên hơn 45 ha, chiều dài bến 235 m, đủ điều kiện đón tàu 2.000 DWT ra vào an toàn, đạt công suất bốc xếp 5 triệu tấn/năm. Hệ thống băng tải, thiết bị bốc rót than của cụm cảng Km 6 cũng được đầu tư hiện đại, cùng lúc có thể đáp ứng hai tàu 2.000 DWT vào “ăn” than.

9 giờ sáng 10-10 vừa qua là thời điểm ghi dấu ấn “bước ngoặt” cho TKV: Tàu vận tải NB-6488 của Công ty than Thanh Hóa trọng tải 1.000 tấn cập cảng Km 6, “mở hàng” nhận than trực tiếp từ khai trường cách xa bến cảng bằng hệ thống băng tải kín, rót thẳng xuống khoang tàu tại cảng. Chủ tịch Hội đồng thành viên TKV Lê Minh Chuẩn đánh giá: Việc hoàn thành hệ thống băng tải Lép Mỹ - cảng Km 6 đúng tiến độ, đạt chất lượng đã thể hiện quyết tâm của TKV trong việc triển khai các cam kết với tỉnh Quảng Ninh, góp phần thực hiện mục tiêu đồng bộ quá trình khai thác than, sàng tuyển - chế biến, vận chuyển, tiêu thụ nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh. Có thể nói, đây thật sự là cuộc cách mạng của ngành than, đưa khoa học - công nghệ tiên tiến, thân thiện môi trường vào sản xuất. Công nghệ này đã đồng bộ hóa, khép kín từ sản xuất đến tiêu thụ, chống thất thoát, tiết kiệm chi phí, bảo vệ môi trường theo cam kết với chính quyền và nhân dân khu mỏ, góp phần tích cực vào sự phát triển bền vững của tỉnh Quảng Ninh. Việc đầu tư và đưa vào sử dụng hệ thống máy sàng - tuyển than và hệ thống vận tải than Lép Mỹ - cảng Km 6 nhằm đáp ứng quy hoạch phát triển ngành than đến năm 2020, xét triển vọng đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

Hướng tới tăng trưởng xanh

Để chủ động, sẵn sàng tăng cao sản lượng than, đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế trong những năm tới, TKV đã chỉ đạo các đơn vị thành viên tiếp tục đẩy nhanh tiến độ xây dựng mỏ mới và các dự án mở rộng sản xuất. Trước mắt, tập trung cho một số dự án lớn như công trình khai thác mỏ Khe Chàm II-IV, mỏ hầm lò Núi Béo, bảo đảm phát huy hiệu quả dự án sau đầu tư. TS Trần Tú Ba, Viện trưởng Viện Khoa học - Công nghệ Mỏ (TKV) nhận định: Việc xây dựng các mỏ hầm lò mới, ứng dụng công nghệ hiện đại của TKV phù hợp với chủ trương chuyển hướng phát triển ngành than từ tăng trưởng nóng sang tăng trưởng xanh, phát triển theo chiều sâu, nhằm tận thu tài nguyên và bảo đảm môi trường bền vững.

Dự án mỏ Khe Chàm II-IV được TKV khởi công từ năm 2013, công suất thiết kế 3,5 triệu tấn than/năm với tổng mức đầu tư hơn 12.500 tỷ đồng. Mỏ có trữ lượng công nghiệp hơn 74 triệu tấn, gồm 13 lò chợ được thiết kế theo tiêu chí: “Mỏ sạch, ít người - an toàn - hiện đại - tiết kiệm tài nguyên - sản lượng cao” đạt tiêu chuẩn châu Âu, áp dụng cơ giới hóa đồng bộ trong khai thác đối với tất cả các khu vực có điều kiện cho phép. Các hệ thống vận tải, thông gió, thoát nước, quan trắc tập trung, tổ hợp công nghệ trên mặt mỏ được cơ giới hóa, tự động hóa tối đa. Khu xử lý nước thải mỏ được thiết kế hiện đại, bảo đảm nước thải sau xử lý có thể tái sử dụng.

Những năm qua, các đơn vị ngành than đã đổi mới toàn diện, hiện đại hóa các khâu trong quá trình khai thác than hầm lò. Trước năm 2000, khai thác than hầm lò chủ yếu là sản xuất thủ công với phương pháp khấu than bằng nổ mìn, chống giữ lò chợ bằng gỗ, sản lượng khai thác hằng năm chỉ đạt khoảng 300 nghìn tấn. Phó Trưởng phòng Khoa học - Công nghệ (Viện Khoa học - Công nghệ mỏ) Lê Thanh Phương cho biết: Thời gian trước đây, sử dụng chống giữ lò bằng gỗ, để khai thác 1.000 tấn than tiêu hao tới 80 m3 gỗ, tận diệt rừng nhưng hiệu suất khai thác than vẫn rất thấp, sản lượng khai thác than toàn ngành hằng năm chỉ vỏn vẹn bốn triệu tấn. Những năm gần đây, nhờ đổi mới công nghệ, năng suất lao động ngành than tăng khoảng năm lần, sản lượng khai thác than tăng tám lần. Giờ đây, lò chợ của các mỏ đều áp dụng công nghệ chống giữ lò bằng khung, giá thủy lực, vận chuyển than bằng hệ thống băng tải, các thiết bị bốc xúc đều được cơ giới hóa như máy đào lò AM-50Z, khoan tự hành Tam-rốc,…; một lò chợ mỗi tháng “ăn đứt” sản lượng của cả mỏ khai thác trong một năm trước đây.

Công ty than Thống Nhất đã đầu tư cơ giới hóa đồng bộ khâu khai thác than hầm lò ở toàn bộ 11 lò chợ bằng công nghệ tiên tiến, tính năng kỹ thuật cao, phù hợp điều kiện khai thác than hầm lò ở độ sâu lớn như máy khấu com-bai, xe khoan tự hành,... đưa năng suất đào lò và khai thác tăng hơn 50% so với trước. Công ty đã chủ động phối hợp Viện Khoa học - Công nghệ mỏ đẩy mạnh đầu tư và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, từng bước đưa công nghệ mới vào khai thác than hầm lò. Theo Giám đốc Công ty Phạm Đức Khiêm, để bảo đảm an toàn cho công nhân trong quá trình sản xuất, công ty đã ứng dụng công nghệ thông tin liên lạc trong hầm lò, trang bị hệ thống hướng dẫn bằng la-de thay cho máy thủy chuẩn, bảo đảm chính xác cao và giảm thiểu các chi phí. Công ty còn đầu tư hệ thống kiểm soát khí mỏ bằng máy đo quang học và máy Impact Pro; trang bị 252 máy đo khí cho tất cả các công trường.

Mới đây, công ty đã triển khai thêm hệ thống định vị nhân sự, có thể xác định vị trí từng công nhân trong suốt quá trình làm việc, đáp ứng việc cứu hộ nhanh chóng, hiệu quả nhất trong trường hợp sự cố. Trong bối cảnh hầu hết các mỏ gặp khó khăn do ảnh hưởng mưa lũ trước đây, mặc dù điều kiện sản xuất, địa chất mỏ phức tạp, công ty vẫn duy trì nhịp độ sản xuất khá. Sản lượng khai thác than trong chín tháng qua của công ty đạt hơn 1,5 triệu tấn, đạt 86% kế hoạch cả năm, phấn đấu hoàn thành vượt mức kế hoạch gần 1,8 triệu tấn trong năm nay. Thu nhập bình quân của công nhân và người lao động hằng tháng đạt hơn 10 triệu đồng/người, riêng thợ lò đạt 15 triệu đồng/người, một số thợ bậc cao đạt hơn 30 triệu đồng/tháng.

Theo Tổng Giám đốc TKV Đặng Thanh Hải, nhằm bảo đảm khai thác hiệu quả các dự án sau đầu tư, Tập đoàn đã chỉ đạo các đơn vị tiếp tục tăng cường tư vấn, nghiên cứu hiện đại hóa các mỏ than, từng bước nâng cao năng lực khai thác than hầm lò; đẩy mạnh đầu tư đổi mới công nghệ theo hướng cơ giới hóa, tự động hóa nhằm nâng cao mức độ bảo đảm an toàn lao động và nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm. Các đơn vị khai thác trong Tập đoàn cũng chủ động sắp xếp, tổ chức sản xuất hợp lý, tăng cường áp dụng các giải pháp công nghệ, tiết giảm chi phí sản xuất. Toàn ngành sẽ đầu tư cải tạo, mở rộng, nâng công suất 9 dự án mỏ; đầu tư xây mới 41 dự án mỏ theo lộ trình, tổng nhu cầu vốn đầu tư đến năm 2030 dự kiến hơn 269 nghìn tỷ đồng.

Theo quy hoạch, ngành than sẽ đẩy mạnh nghiên cứu, tiếp nhận, chuyển giao, làm chủ công nghệ - kỹ thuật tiên tiến trong lĩnh vực thăm dò, khai thác, chế biến than, nhất là công nghệ khai thác dưới mức âm 300 m bể than Quảng Ninh và bể than sông Hồng. Đồng thời nghiên cứu, áp dụng đồng bộ các biện pháp kỹ thuật và quản lý nhằm sử dụng tiết kiệm tài nguyên, tiết kiệm chi phí trong các khâu từ thăm dò, khai thác, chế biến, đến vận chuyển, tiêu thụ và kinh doanh than.

Đối với khai thác hầm lò, TKV tiếp tục hoàn thiện các công nghệ cơ giới hóa đồng bộ khai thác than lò chợ và tăng cường sử dụng đồng bộ thiết bị cơ giới hóa đào lò, sử dụng rộng rãi công nghệ chống vì neo bê-tông cốt thép, neo dẻo cốt thép, bê-tông phun trong các đường lò,... Tập đoàn tiếp tục nghiên cứu trình tự khai thác đổ thải vùng Cẩm Phả, cơ cấu lại các mỏ Cao Sơn, Cọc Sáu, Đèo Nai để khai thác tối ưu, triệt để tài nguyên, nâng cao hiệu quả sản xuất. Đối với khâu sàng tuyển, chế biến than, Tập đoàn sẽ áp dụng công nghệ mới, tự động hóa tối đa các công đoạn để giảm ô nhiễm môi trường và khâu lao động nặng nhọc cho công nhân.

Nguyễn Hoàng. Hơn 300 triệu USD đầu tư vào dự án phát triển tổ hợp cảng biển ở Quảng Ninh//http://dangcongsan.vn.- 2016.- Ngày 19 tháng 11

Ngày 18/11, UBND tỉnh Quảng Ninh đã trao giấy chứng nhận đăng ký đầu tư Dự án phát triển tổ hợp cảng biển và khu công nghiệp tại khu vực Đầm Nhà Mạc, thị xã Quảng Yên (Quảng Ninh) cho Liên danh các nhà đầu tư gồm Công ty tập đoàn Quốc tế CDC (Đảo Cayman), Công ty TNHH Tiện ích Trung Đông (Singapore) và Công ty TNHH Đầu tư hạ tầng Á Châu Hồng Kông.

Dự án phát triển tổ hợp cảng biển và khu công nghiệp tại khu vực Đầm Nhà Mạc là dự án đầu tư kinh doanh kết cấu hạ tầng kỹ thuật cảng và khu công nghiệp, có tổng mức đầu tư 6.940 tỷ đồng (tương đương 315,47 triệu USD) .

Tổng diện tích mặt đất, mặt nước sử dụng của dự án là 1.192,9 ha (không bao gồm 9,6 ha đất quy hoạch do cơ quan Nhà nước quản lý) và được triển khai ở các xã Tiền Phong, Liên Hoà, Liên Vị và Phong Cốc; trong đó, tổng diện tích đất được sử dụng để cho các nhà đầu tư thứ cấp thuê là 856,5 ha; thời hạn hoạt động của dự án là 50 năm kể từ ngày cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư.

Dự án được thực hiện theo ba giai đoạn; trong đó, giai đoạn 1, từ năm 2017 đến năm 2021 sẽ hoàn thành việc san lấp mặt bằng và xây dựng trên diện tích 318,8 ha của khu đất Dự án; giai đoạn 2, từ năm 2022 đến năm 2031 sẽ hoàn thành việc san lấp mặt bằng và xây dựng trên diện tích 874,1 ha của khu đất dự án; giai đoạn 3, từ năm 2032 đến năm 2036 hoàn thiện toàn bộ cơ sở hạ tầng khu công nghiệp. Đây cũng là dự án phù hợp với định hướng phát triển của tỉnh Quảng Ninh và quy hoạch phát triển hạ tầng cảng biển, khu công nghiệp của cả nước trong tương lai.

Dự kiến sau khi dự án hoàn thành đi vào hoạt động sẽ tạo việc làm trực tiếp cho 110.000 lao động địa phương và các vùng lân cận./.

3. Đầu tư hơn 300 triệu USD phát triển tổ hợp cảng biển và KCN ở Quảng Ninh// http://laodong.com.vn.-2016.-Ngày 19 tháng 11

UBND tỉnh Quảng Ninh vừa trao giấy chứng nhận đăng ký đầu tư Dự án phát triển tổ hợp cảng biển và khu công nghiệp tại khu vực Đầm Nhà Mạc, thị xã Quảng Yên (Quảng Ninh) cho Liên danh các nhà đầu tư gồm Công ty tập đoàn Quốc tế CDC (Đảo Cayman), Công ty TNHH Tiện ích Trung Đông (Singapore) và Công ty TNHH Đầu tư hạ tầng Á Châu Hồng Kông.

Dự án phát triển tổ hợp cảng biển và khu công nghiệp tại khu vực Đầm Nhà Mạc là dự án đầu tư kinh doanh kết cấu hạ tầng kỹ thuật cảng và khu công nghiệp, có tổng mức đầu tư 6.940 tỉ đồng (tương đương 315,47 triệu USD) .

Dự án được thực hiện theo ba giai đoạn. Giai đoạn 1, từ năm 2017 đến năm 2021 sẽ hoàn thành việc san lấp mặt bằng và xây dựng trên diện tích 318,8 ha của khu đất Dự án. Giai đoạn 2, từ năm 2022 đến năm 2031 sẽ hoàn thành việc san lấp mặt bằng và xây dựng trên diện tích 874,1 ha của khu đất dự án. Giai đoạn 3, từ năm 2032 đến năm 2036 hoàn thiện toàn bộ cơ sở hạ tầng khu công nghiệp. Đây cũng là dự án phù hợp với định hướng phát triển của tỉnh Quảng Ninh và quy hoạch phát triển hạ tầng cảng biển, khu công nghiệp của cả nước trong tương lai.

Dự kiến sau khi dự án hoàn thành đi vào hoạt động sẽ tạo việc làm trực tiếp cho 110.000 lao động địa phương và các vùng lân cận. Đây cũng là dự án phù hợp với định hướng phát triển của tỉnh Quảng Ninh và quy hoạch phát triển hạ tầng cảng biển, khu công nghiệp của cả nước trong tương lai.

4. Gần 14 nghìn tỷ đồng làm đường cao tốc Vân Đồn – Móng Cái//http://nongnghiep.vn.- 2016.- Ngày 24 tháng 11

UBND tỉnh Quảng Ninh vừa nhận được đề xuất làm đường cao tốc Vân Đồn – Móng Cái theo hình thức BOT của liên danh các nhà đầu tư Cái Mép – Thái Sơn – VINACONEX E&C – Cty CP Cầu 12 – Khánh An – Cienco1.

Theo đó, liên danh này lập dự án đường cao tốc với tổng vốn gần 14 nghìn tỷ đồng, thời gian thi công là 3 năm và thời gian thu phí dự kiến khoảng 25 năm. Chiều dài toàn tuyến hơn 91km, điểm đầu dự án nối với cao tốc Hạ Long - Vân Đồn, tại Km59+556,36 - nút giao Đoàn Kết, thuộc địa phận xã Đoàn Kết, huyện Vân Đồn; điểm cuối nối với đường dẫn cầu Bắc Luân II, tại Km150+725,03 - giao đường tỉnh 335, thuộc địa phận TP Móng Cái. Dự án đi qua 5 địa phương: Vân Đồn, Tiên Yên, Đầm Hà, Hải Hà và Móng Cái. Quy mô đường cao tốc 4 làn xe, vận tốc thiết kế 100km/h

 

5. Đoàn Kiển. Quản lý ngành Than: Theo thị trường hay kế hoạch hóa?// http://giadinhphapluat.vn.-2016.-Ngày 24 tháng 11

Có mấy người hỏi tôi: Tại sao kế hoạch của Bộ Công Thương dự tính năm nay 2016 chỉ nhập khẩu 3 triệu tấn than mà thực tế 9 tháng đầu năm than nước ngoài đã vào VN hơn 10 triệu tấn?

Mới đây Cổng thông tin điện tử Chính phủ đã tổ chức toạ đàm "Nhập khẩu than và đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia", ở đó có mấy số liệu đã được đại diện các cơ quan liên quan đưa ra: Theo Tổng cục Hải quan thì đến 15/9/2016 tổng lượng than nhập khẩu là 10,1 triệu tấn, với kim ngạch 629,5 triệu đô la Mỹ (bình quân 62,95 đô la mỗi tấn) từ các nước Úc, Nga, Indonesia và Trung Quốc.

Ông Nguyễn Khắc Thọ - Phó tổng cục trưởng Tổng cục Năng lượng, Bộ Công Thương cho biết: 8 tháng đã nhập khẩu 9,7 triệu tấn, cao hơn dự toán quy hoạch 3 lần; 3 triệu tấn quy hoạch chưa tính đến việc nhập khẩu của các nhà máy điện BOT, các nhà máy đã nhập than trước đây...

Từ hơn 10 năm trước, Bộ Công Thương đã tính đến việc nhập khẩu than vì nhu cầu trong nước nhất là cho các nhà máy nhiệt điện đốt than sẽ tăng cao sau năm 2015, trong khi ngành Than VN dù có cố cũng không đáp ứng được.

Theo quy hoạch phát triển điện và quy hoạch phát triển than đã được duyệt thì sau 2020 nhập khẩu than tăng cao và vượt cả sản lượng than sản xuất trong nước. Người ta đã tính đến nhập khẩu cả trên 100 triệu tấn than vào giai đoạn trước hoặc sau năm 2030. Các cơ quan quản lý Nhà nước tính rằng: Lấy tổng số nhu cầu sử dụng than hàng năm - (trừ đi) sản lượng trong nước sản xuất được = (bằng) số cần nhập khẩu. Thiếu thì phải nhập và không được phép xuất khẩu than nữa.

Nhìn vào thị trường than 9-10 tháng đầu năm nay 2016 ta thấy, Một là: Số lượng than nhập khẩu và số tồn kho than sản xuất trong nước gần như ngang nhau; Hai là: Giả sử chỉ nhập khẩu ít thôi (cho các nhà máy có nhu cầu sử dụng than khác, đã từng nhập khẩu từ đầu) thì không phải chi ra hơn nửa tỷ đô la Mỹ để “rước” than nước ngoài về nước ta làm cho Ngành Than trong nước điêu đứng lại càng thêm điêu đứng, việc làm và đời sống thợ mỏ bị đe doạ bất ổn; Ba là: Và như vậy than trong nước không tồn kho vượt định mức. Đấy là "giả sử", chứ thực tế không phải như vậy. Có cách nào giải quyết vấn đề?

Giải quyết vấn đề thế nào?

Nhiều năm trước TKV (Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam) đã nhiều lần nêu ý kiến và đề nghị, và theo tôi biết thì hiện nay TKV vẫn giữ mấy nhận xét và kiến nghị sau đây:

Thứ nhất: Khai thác than trong nước tại Vùng mỏ Đông Bắc ngày càng khó hơn trước với chi phí cao hơn trước do mỏ xuống sâu hơn, bóc đất đá nhiều hơn, đào lò sâu hơn, chi phí sản xuất, chi phí bảo đảm an toàn lao động, an toàn môi trường cao hơn...

Còn ở Vùng Đồng bằng Sông Hồng thì phải thử nghiệm khai thác theo cả công nghệ truyền thống lẫn công nghệ khí hoá than ngầm dưới lòng đất tại địa điểm thuận lợi trước, chứ ban đầu mà làm thử ở ngoài bãi biển thì chắc không thành.

Thử nghiệm sẽ cho kết quả: Có khai thác được than ở Đồng bằng Sông Hồng hay không? Và nếu được thì có thể được bao nhiêu? (Xét dưới các yếu tố công nghệ, bảo vệ môi trường, an ninh lương thực...). Chi phí sản xuất than tăng lên là yếu tố khách quan phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên. Tuy nhiên về phía chủ quan thì phải áp dụng mọi giải pháp có thể kiểm soát chi phí sao cho đúng các tiêu chuẩn, định mức kỹ thuật - kinh tế.

Hai là: Có thể nhập khẩu được than nhưng khó lòng nhập khẩu với khối lượng lớn như dự báo trong quy hoạch. Hơn nữa sẽ khó có nhà sản xuất nước ngoài nào dám cam kết bán than dài hạn cho cả đời hoạt động của nhà máy điện hay nhà máy xi măng ở VN ngoại trừ trường hợp người VN đầu tư khai thác mỏ than ở nước ngoài rồi xuất khẩu than về nước như các Công ty Nhật Bản đã làm.

Theo tôi biết thì vừa qua chưa có công ty điện lực nào của VN ký được hợp đồng nhập khẩu than dài hạn; đó là minh chứng cho nhận định của TKV. Hiện đang có trên 50 công ty VN tham gia nhập khẩu than trong 10 tháng qua. Hầu hết là ăn xổi, kiếm được thì làm vì pháp luật không cấm, thuế nhập khẩu lại bằng 0%!

Ba là: Nếu coi than là 1 trong 3 trụ cột an ninh năng lượng quốc gia thì Nhà nước cần ban bố và thực hiện chính sách khuyến khích phát triển sản xuất than trong nước. Xét về mặt trữ lượng và tài nguyên than thì nước ta không phải là nghèo, không phải không đáp ứng được nhu cầu trong nước. Có chính sách đúng khuyến khích thì dù khó vẫn phát triển được ngành Than, trước hết ở vùng Đông Bắc, sau đó ở Đồng bằng Sông Hồng (sau thử nghiệm). Phát triển ngành Than là giành thế chủ động bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, ít lệ thuộc vào nước ngoài.

Bốn là: Chính sách đã được TKV đề xuất:

- Giao tài nguyên than cho Công ty mẹ TKV (nay là TKV và Tổng Công ty Đông Bắc) để chủ động thăm dò, khai thác và bảo vệ như Chính phủ đã thực hiện trước đây tại quyết định 481 của Bộ công nghiệp nặng năm 1995;

 

- Đánh thuế hợp lý, không cao hơn các nước sản xuất than trong khu vực;

 

- Nếu giao kế hoạch sản xuất thì cần có cơ chế được luật hoá cho bên sản xuất than và bên sử dụng than ký kết và thực hiện hợp đồng dài hạn theo giá cả do cơ quan Nhà nước kiểm soát trên cơ sở các chỉ tiêu công nghệ, các tiêu chuẩn, định mức kỹ thuật - kinh tế;

- Nếu không làm như trên thì cho thực hiện theo cơ chế thị trường, thuận mua vừa bán; có nhập khẩu và có xuất khẩu trên nguyên tắc hiệu quả. Nhà sản xuất than không phải chịu trách nhiệm với nhà sử dụng than và với Nhà nước ngoài phạm vi hợp đồng mua bán dài hạn hay ngắn hạn. Được như vậy nhà sản xuất sẽ chủ động đầu tư phát triển sản xuất tuỳ thuộc vào nhu cầu thị trường và các hợp đồng đã và sẽ giao kết.

Năm là: Dù cơ chế nào thì khi xử lý chính sách đối với ngành Than cũng cần lưu ý một thực tế đã và đang hiện hữu: Ngành sản xuất than không chỉ là kinh tế mà nó có vai trò và ý nghĩa chính trị lớn không chỉ tại vùng Mỏ Quảng Ninh. Đối xử với ngành Than tức là đối xử với giai cấp công nhân Mỏ giầu truyền thống cách mạng. Tôi viết ra điều này không phải để đề cao, hay để cảnh báo, mà thực tế nó thế; chả thế mà 48 năm trước Bác Hồ đã dạy: "Ngành sản xuất than cũng như quân đội đánh giặc..."( 15/11/1968 ).

Cộng đồng thợ mỏ đông đến cả chục vạn người sống và làm việc tập trung ở 3 thành phố Cẩm Phả, Hạ Long, Uông Bí, thị xã Đông Triều, huyện Hoành Bồ Quảng Ninh và huyện Sơn Động Bắc Giang. Thợ mỏ và gia đình thợ mỏ chiếm gần một nửa dân số Tỉnh Quảng Ninh. Ngành Than phát triển, Quảng Ninh ổn định, đi lên; ngành Than sa sút thì an sinh xã hội Quảng Ninh bất ổn.

Đáng tiếc những vấn đề nêu trên chưa hoặc không được giải quyết, ngược lại sự quản lý hiện tại càng làm khó cho ngành Than: Đó là, thuế đã tăng từ 1/7/2016 vượt cao hơn hẳn các nước trong khu vực 7 đến 10% (theo Phó Tổng Giám đốc TKV Nguyễn Văn Biên tại toạ đàm ở Cổng thông tin điện tử Cẩm Phả). Chỉ cần giảm đi 7% thôi thì chắc là không có đến hơn 10 triệu tấn than nhập khẩu và không tồn kho đến 12 triệu tấn như vừa rồi.

Và đặc biệt thợ mỏ không đến nỗi vất vả, lận đận vì thiếu việc làm. Điều hành thì thị trường không ra thị trường, kế hoạch hoá tập trung không ra kế hoạch hoá tập trung. Nhập khẩu thì thoải mái với thuế nhập khẩu bằng 0%; nhưng lại không cho xuất khẩu làm cho than vùng Vàng Danh, Uông Bí (chất bốc thấp, lưu huỳnh cao hơn than Hòn Gai) tồn kho cao ngất ngưởng.

Nếu cho TKV chủ động xuất khẩu thì tình hình không đến nỗi bi đát như vừa rồi! Cách điều hành nói trên đã chuyển việc làm của thợ mỏ ngành Than VN, GDP của VN sang cho thợ mỏ các nước xuất khẩu than vào VN và tăng GDP cho họ, thật đáng tiếc!

Cuối cùng xin nói đến các nhà sản xuất than: Dù cơ chế gì thì cũng phải chủ động và "quyết liệt" cắt giảm chi phí sản xuất nâng sức cạnh tranh lên. Vẫn biết TKV, Tổng Công ty Đông Bắc và các công ty than đang hành động với nhiều giải pháp khác nhau để giảm giá thành; nhưng cần phải làm mạnh mẽ hơn nữa đồng thời cũng nên xem xét giảm giá đi mà bán để giảm bớt tồn kho, giảm bớt dư nợ vay ngân hàng.

Giảm giá thì TKV, Đông Bắc thiệt, nhưng các nhà sử dụng than được lợi, nền kinh tế được lợi và cũng nên coi đó là một sự đóng góp của ngành Than. Về lâu dài dù cho thuế có giảm bằng các nước trong khu vực mà chi phí sản xuất không được kiểm soát chặt chẽ trên cơ sở các chỉ tiêu công nghệ, định mức kỹ thuật - kinh tế tiên tiến thì khó lòng cạnh tranh được. Muốn nói gì thì nói, giá than bán trong nước tại cùng một địa điểm không được cao hơn than nhập khẩu, chỉ nên tiệm cận với giá nhập khẩu thôi. Đó chính là nguyên tắc hành động của sản xuất than trong nước!

Giá than trên thị trường thế giới đang có tín hiệu gia tăng, có lẽ thời gian tới sẽ bớt khó khăn tý chút. Mong rằng những nhà quản lý và thợ mỏ cùng cố gắng vượt qua giai đoạn phức tạp, khó khăn này!

6. Văn Đức. Quảng Ninh: Sẽ chấm dứt nuôi trồng thủy sản trong khu vực di sản vịnh Hạ Long//http://dangcongsan.vn.- Năm 2016.- Ngày 20 tháng 12

Tỉnh Quảng Ninh vừa ban hành Quy chế quản lý, bảo vệ, phát huy di sản thiên nhiên thế giới vịnh Hạ Long. Một trong những điểm mới, đáng lưu ý trong Quy chế này là Quảng Ninh sẽ hạn chế và từng bước di chuyển, tiến tới chấm dứt các điểm nuôi trồng thủy sản trong khu vực di sản thế giới.

Tỉnh Quảng Ninh chỉ cho phép nuôi trồng thủy sản tại các khu vực có quy hoạch, được cơ quan có thẩm quyền cấp phép và tuân thủ quy định; không thực hiện hoạt động khai thác thủy sản dưới mọi hình thức tại các điểm tổ chức cho khách tham quan du lịch, hang động, bãi tắm, luồng đường thủy, tuyến du lịch và các khu vực được cấp có thẩm quyền quy hoạch bảo tồn hệ sinh thái; không được thực hiện các hoạt động khai thác thủy sản tại khu vực di sản thế giới, trừ nghề câu, lặn giải trí, sử dụng ngư cụ truyền thống phục vụ du lịch trải nghiệm được cơ quan có thẩm quyền cho phép.

Quy chế quản lý vịnh Hạ Long cũng quy định cụ thể các lĩnh vực như: quản lý bảo tồn di sản vịnh Hạ Long, hoạt động kinh tế - xã hội liên quan trên vịnh Hạ Long; hoạt động nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế; hoạt động cư trú trên vịnh Hạ Long; kinh phí thực hiện quản lý, bảo vệ, bảo tồn di sản vịnh Hạ Long; trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước, đơn vị, tổ chức, cá nhân có liên quan đối với di sản vịnh Hạ Long.

Phạm vi áp dụng Quy chế gồm toàn bộ khu vực di sản vịnh Hạ Long (gồm vịnh Hạ Long và vịnh Bái Tử Long, trừ phạm vi của rừng quốc gia Bái Tử Long). Quy chế cũng nêu rõ đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước có hoạt động liên quan đến vịnh Hạ Long đều phải tuân thủ các quy định của pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tuân thủ Công ước về bảo vệ di sản thế giới và Quy chế này.

Tất cả các hoạt động khai thác và phát huy giá trị vịnh Hạ Long (kể cả các Dự án phát triển kinh tế - xã hội trên Vịnh) đã và đang thực hiện nếu chưa phù hợp với các quy định tại Quy chế này thì các tổ chức, cá nhân (chủ các dự án) phải tiến hành xem xét, điều chỉnh lại và trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền thẩm định, phê duyệt cho phù hợp.

UBND tỉnh Quảng Ninh giao UBND thành phố Hạ Long phối hợp với các sở, ban, ngành và các địa phương liên quan (thành phố Cẩm Phả, thị xã Quảng Yên và các huyện Vân Đồn, Cô Tô, Hoành Bồ) triển khai thực hiện Quy chế; thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện của các tổ chức, cá nhân liên quan trong quá trình thực hiện quy chế./.

 

CHÍNH TRỊ

7. Minh Hà. Quảng Ninh: Bồi dưỡng chính trị cho cán bộ chủ chốt ngành Giáo dục//http://dangcongsan.vn.- 2016.- Ngày 29 tháng 11

Ngày 29/11, tại TP Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, Sở Giáo dục và Đào tạo phối hợp với Công an tỉnh tổ chức Hội nghị bồi dưỡng kiến thức về đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tội phạm và các vi phạm pháp luật cho đội ngũ cán bộ chủ chốt của ngành Giáo dục.

Tham gia hội nghị, gần 200 học viên là cán bộ chủ chốt của ngành Giáo dục các địa phương và các trường học trong toàn tỉnh đã được lãnh đạo Công an tỉnh thông tin nhanh một số nội dung về tình hình an ninh chính trị quốc tế, khu vực, trong nước và tỉnh Quảng Ninh.

Các học viên cũng đã được nghe thuyết giảng về 3 chuyên đề, bao gồm: Những yêu cầu trong công tác đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội, phòng chống tội phạm và các vi phạm pháp luật trong ngành Giáo dục; thực trạng vi phạm pháp luật và tội phạm trong thanh thiếu niên, học sinh sinh viên và các biện pháp ngăn ngừa; thực trạng ma túy và tội phạm ma túy, cách nhận biết và biện pháp phòng chống ma túy trong thanh thiếu niên, học sinh sinh viên.

Các kiến thức học viên thu được từ hội nghị bồi dưỡng sẽ được áp dụng vào một số môn học chính khóa và các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp. Các học viên cũng có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương và các tổ chức, đoàn thể trong công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật và phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội trong thanh thiếu niên, học sinh sinh viên; giữ vai trò gương mẫu và chủ chốt trong công tác này ở địa phương, đơn vị mình phụ trách…

 

8. Bảo Bình. Đảng uỷ Quân sự tỉnh: Nâng cao chất lượng công tác xây dựng Đảng//http://baoquangninh.com.vn.- 2016.- Ngày 22 tháng 12.

.

.

Năm 2016, Đảng uỷ - Bộ CHQS tỉnh và cấp uỷ, chỉ huy các cấp đã quán triệt, chấp hành nghiêm các nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn của trên, bám sát tình hình địa phương, đơn vị, thực hiện hoàn thành toàn diện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng địa phương.

Trong đó, nhiều nhiệm vụ hoàn thành xuất sắc, nổi bật là: Tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền địa phương kịp thời ban hành và tổng kết các nghị quyết, chỉ thị, kế hoạch lãnh đạo, chỉ đạo công tác quốc phòng địa phương; lãnh đạo LLVT tỉnh duy trì nghiêm các chế độ sẵn sàng chiến đấu; phối hợp nắm tình hình, bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới, biển đảo, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn; tham gia phòng chống thiên tai, tìm kiếm cứu nạn; nâng cao chất lượng huấn luyện, diễn tập, hội thao, hội thi; thực hiện tốt công tác tuyển quân, công tác xây dựng lực lượng... Đặc biệt, công tác xây dựng Đảng đã được Đảng bộ Quân sự tỉnh thực hiện với những chuyển biến tích cực; năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng bộ được phát huy.

Quán triệt, thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng uỷ - Bộ Tư lệnh Quân khu 3, của Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh, Đảng uỷ Quân sự tỉnh đã tập trung nâng cao năng lực cụ thể hoá chỉ thị, nghị quyết của trên vào lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị và chất lượng sinh hoạt của cấp uỷ cơ sở. Trong đó, đã chủ động triển khai chương trình hành động của Đảng uỷ về thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp và các nghị quyết chuyên đề của Đảng uỷ Quân khu 3, Tỉnh uỷ Quảng Ninh sát với tình hình Đảng bộ. Đồng thời, chỉ đạo thống nhất thực hiện nghị quyết và chế độ ra nghị quyết của các cấp uỷ, chi bộ trong Đảng bộ Quân sự tỉnh và Đảng bộ Quân sự các huyện, thị xã, thành phố; lãnh đạo giữ vững nguyên tắc, duy trì nghiêm chế độ, nền nếp sinh hoạt Đảng. Cùng với đó, kịp thời kiện toàn bổ sung cấp uỷ các cấp để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng; giải quyết tốt các mối quan hệ, nội bộ đoàn kết thống nhất. Đảng uỷ cũng đặc biệt quan tâm xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ bí thư cấp uỷ, chính uỷ, chính trị viên các cấp, bảo đảm cho đội ngũ này có đủ phẩm chất, năng lực tương xứng với vị trí chủ trì về chính trị ở cơ quan, đơn vị. Nhờ đó, phương pháp, tác phong công tác của tập thể cấp uỷ, chỉ huy các đơn vị đã có sự đổi mới, sâu sát, cụ thể, hướng về cơ sở; nắm chắc tình hình, đề xuất giải quyết kịp thời những vấn đề thực tiễn đặt ra. Song song với đó, Đảng uỷ Quân sự tỉnh đã lãnh đạo thực hiện có hiệu quả việc học và làm theo Bác. Tháng 3-2016, đơn vị đã tổ chức đợt sinh hoạt “Tự soi, tự sửa” với sự tham gia của 100% cơ quan, đơn vị trong Đảng bộ nhằm đa dạng hoá hình thức triển khai thực hiện Nghị quyết T.Ư 4 (khoá XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” gắn với thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW (ngày 14-5-2011) của Bộ Chính trị về “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Ngay sau khi Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khoá XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” được ban hành, đơn vị đã chỉ đạo các cơ sở đảng tổ chức học tập, quán triệt, và triển khai thực hiện gắn với Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”. Hiện nay, 100% chi, đảng bộ trực thuộc đã xây dựng kế hoạch thực hiện Chỉ thị 05 gắn với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị và các phong trào thi đua. Các cấp uỷ cũng tăng cường sự lãnh đạo đối với việc chấp hành kỷ luật quân đội, pháp luật Nhà nước trong LLVT, tích cực chỉ đạo tăng cường các biện pháp quản lý, giáo dục và rèn luyện đảng viên; đánh giá xếp loại, khen thưởng tổ chức đảng, đảng viên gắn với nhận xét, kê khai tài sản cán bộ hàng năm bảo đảm chặt chẽ. Năm 2016 đã tổ chức kiểm tra, giám sát và phối hợp với UBKT Đảng uỷ Than Quảng Ninh, UBKT Khối các cơ quan tỉnh, UBKT các huyện, thị, thành uỷ tiến hành kiểm tra, giám sát 19 cơ sở, kịp thời chấn chỉnh những hạn chế, khuyết điểm của tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên. Đảng uỷ Quân sự tỉnh cũng làm tốt công tác xây dựng quy hoạch cán bộ chỉ huy, quản lý cấp dưới trực tiếp nhiệm kỳ 2015-2020. Trong năm, xét, đề nghị thăng quân hàm, nâng lương, điều động, bổ nhiệm, chuyển giao cán bộ năm 2016 cho 98 đồng chí và thực hiện công tác sĩ quan dự bị đúng quy định.     

Đến nay, về cơ bản các tổ chức cơ sở đảng trong toàn đảng bộ phát huy tốt vai trò hạt nhân lãnh đạo, nội bộ đoàn kết thống nhất cao, chất lượng chính trị của LLVT tỉnh không ngừng được nâng lên. 100% cán bộ, chiến sĩ có bản lĩnh chính trị vững vàng, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao; 100% cơ quan, đơn vị an toàn tuyệt đối về chính trị.

9. Đức Tuân. Thủ tướng kỳ vọng Quảng Ninh sẽ là đầu tàu kinh tế//http://baochinhphu.vn.- Năm 2016.- Ngày 23 tháng 12

(Chinhphu.vn) - Quảng Ninh sẽ là đầu tàu kinh tế phát triển mạnh nhất cả nước trong nhiệm kỳ này, giữ vai trò dẫn dắt sự phát triển của vùng kinh tế trọng điểm, Thủ tướng kỳ vọng.

Thủ tướng kỳ vọng Quảng Ninh sẽ là đầu tàu kinh tế. Ảnh VGP/Quang Hiếu

Chiều 22/12, tại tỉnh Quảng Ninh, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và đoàn công tác Chính phủ đã có cuộc làm việc với lãnh đạo chủ chốt tỉnh Quảng Ninh về tình hình kinh tế - xã hội.

Cùng dự có Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Phạm Minh Chính, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Nguyễn Văn Bình.

Theo báo cáo của Quảng Ninh, tỉnh nằm ở phía Đông Bắc Tổ quốc, tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) năm 2016 của tỉnh ước đạt 10,1%, mức tăng cao so với mặt bằng chung cả nước; GRDP bình quân đầu người đạt 4.050 USD; tổng thu ngân sách ước đạt 36.000 tỷ đồng, trong đó thu nội địa đạt mức cao nhất từ trước đến nay (24.000 tỷ đồng).

Tại cuộc làm việc, lãnh đạo tỉnh Quảng Ninh cũng báo cáo việc thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm mà Chính phủ chỉ đạo năm 2016 như về cải thiện môi trường kinh doanh, tỉnh đã giảm gần 50% thời gian giải quyết thủ tục hành chính so với quy định của Nhà nước. Đến nay, thời gian thành lập doanh nghiệp chỉ còn tối đa từ 1 – 2 ngày. Năm 2016, tỉnh có 1.600 doanh nghiệp thành lập mới, tăng 20% so với năm 2015, cao nhất từ trước tới nay.

 

Về bảo đảm an toàn thực phẩm, Quảng Ninh đã dành 100% kinh phí xử phạt vi phạm hành chính về an toàn thực phẩm để đầu tư trang thiết bị kỹ thuật phục vụ công tác kiểm tra. Tỉnh đã không để xảy ra vụ ngộ độc thực phẩm nào.

Về bảo vệ môi trường, tỉnh đã hoàn thành dự án hỗ trợ kỹ thuật bảo vệ môi trường Vịnh Hạ Long, hoàn thành di dời các làng chài lên bờ, đã đầu tư xây dựng 26 trạm quan trắc môi trường tự động.

Về tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính, tỉnh đã xác định chủ đề công tác năm 2016 là “Nâng cao chất lượng quản trị và hành chính công”, xử lý nghiêm các hành vi nhũng nhiễu, phiền hà, trục lợi khi xử lý, giải quyết công việc.

Về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, Quảng Ninh đã đón 8,4 triệu lượt khách, tăng 9% so với cùng kỳ, doanh thu du lịch đạt 13.300 tỷ đồng.

Quảng Ninh phải trở thành trung tâm kinh tế động lực của Bắc Bộ và cả nước, trung tâm giao lưu quốc tế, điểm đến cho nhà đầu tư, du khách. Ảnh VGP/Quang Hiếu

Đi đầu về hợp tác công - tư

Bày tỏ vui mừng về những kết quả tỉnh Quảng Ninh đạt được thời gian qua, Thủ tướng biểu dương tinh thần dám nghĩ dám làm, dám chịu trách nhiệm, sáng tạo hiệu quả trong phát triển kinh tế-xã hội của Quảng Ninh.

Thủ tướng nhấn mạnh kết quả Quảng Ninh đã đạt được trong xã hội hóa nguồn lực phát triển, là một trong những tỉnh đi đầu về hợp tác công – tư. Theo đó, trong 5 năm 2012 – 2016, Quảng Ninh đã huy động trên 190 nghìn tỷ đồng vốn đầu tư, như vậy 1 đồng ngân sách đã huy động được 8,3 đồng ngoài ngân sách để đầu tư phát triển kinh tế-xã hội. Nhiều công trình lớn đã được đầu tư nhờ nguồn vốn này.

Tuy nhiên, Thủ tướng cho rằng Quảng Ninh tăng trưởng cao nhưng còn dưới mức tiềm năng; giá trị sản phẩm ứng dụng công nghệ cao còn ít; doanh nghiệp địa phương còn hạn chế về quy mô và khả năng cạnh tranh; nguồn nhân lực chất lượng cao còn thiếu; vẫn còn tình trạng vi phạm pháp luật về khai thác, vận chuyển, kinh doanh than.

Tầm nhìn của Quảng Ninh

Về định hướng thời gian tới, Thủ tướng nhấn mạnh: Quảng Ninh phải trở thành trung tâm kinh tế động lực của Bắc Bộ và cả nước; trở thành trung tâm giao lưu quốc tế, điểm đến cho nhà đầu tư, du khách, hàng hóa và những ý tưởng sáng tạo đột phá.

Thủ tướng kỳ vọng Quảng Ninh sẽ là đầu tàu kinh tế phát triển mạnh nhất cả nước trong nhiệm kỳ này, giữ vai trò dẫn dắt sự phát triển của vùng kinh tế trọng điểm.

“Để có tầm nhìn mạnh bạo này, thì vấn đề then chốt là xây dựng niềm tin để các doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư mạnh mẽ vào Quảng Ninh”, Thủ tướng nói.

Vì vậy Quảng Ninh phải có chiến lược tổng thể, nhất quán, có tầm nhìn xa, có chiều sâu về quy hoạch phát triển. Với những tiềm năng lợi thế lớn của địa phương thì tỉnh cần có cơ chế đột phá để khai thác một cách thông minh, không bị mâu thuẫn và xung đột, qua đó tạo động lực phát triển kinh tế năng động và bền vững.

Thủ tướng: Mô hình phát triển của Quảng Ninh lựa chọn phải mở cửa, thu hút được nhân tài trong và ngoài nước phục vụ phát triển kinh tế-xã hội. Ảnh VGP/Quang Hiếu

Mô hình phát triển của Quảng Ninh lựa chọn phải mở cửa, thu hút được nhân tài trong và ngoài nước phục vụ phát triển kinh tế-xã hội. Mô hình đó phải cởi mở ở mức cao nhất và thuận lợi nhất, nhất là với Khu kinh tế Vân Đồn.

Thủ tướng nhấn mạnh, một địa phương chỉ thành công khi có 3 yếu tố: Doanh nghiệp tốt, người giỏi và người giàu. Nếu cải thiện môi trường kinh doanh tốt thì thu hút được nhà đầu tư, thu hút được người giỏi và doanh nghiệp. Nếu có môi trường sống tốt sẽ thu hút được người giàu.

Theo đó, động lực tăng trưởng của Quảng Ninh phải dựa trên năng suất, ứng dụng công nghệ, tính năng động và đổi mới sáng tạo.

Theo Thủ tướng, Quảng Ninh có nhiều thế mạnh nhưng nên chọn một số thế mạnh quan trọng và không cản trở nhau nhằm phát triển bền vững. Chính vì vậy Quảng Ninh cần suy nghĩ về một hệ sinh thái cho những ngành mà mình muốn phát triển. Vừa cần có công nghiệp, dịch vụ để tạo công ăn việc làm cho số đông, vừa cần phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sạch để hỗ trợ ngành du lịch,  cung ứng tiêu dùng, giải quyết vấn đề nông dân, nông thôn. Tỉnh cũng cần kết hợp du lịch, dịch vụ, kinh tế biển, kinh tế cửa khẩu.

Nếu Quảng Ninh coi du lịch là đột phá thì tỉnh cần phải đầu tư cơ sở hạ tầng, tiện ích công cộng, đào tạo nhân lực, quảng bá hình ảnh. Nên xây dựng hệ sinh thái du lịch phong phú, cộng đồng người dân Quảng Ninh làm du lịch chứ không phải một bộ phận làm du lịch.

Thủ tướng nêu rõ, Quảng Ninh không thể chỉ nghĩ đến phát triển mà không nghĩ đến bảo tồn. Bởi bảo tồn chính là để phát triển có chiều sâu và giá trị cao hơn. Đây không chỉ là bài toán cho Quảng Ninh mà là cho tất cả các địa phương.

Tỉnh phải thu hút ít nhất 7 triệu khách du lịch quốc tế, gần 20 triệu khách nội địa, như thế du lịch và dịch vụ mới là ngành kinh tế mũi nhọn.

“Chính quyền Quảng Ninh phải là chính quyền đối thoại, chính sách đồng bộ với bộ máy, thái độ cầu thị, học hỏi kinh nghiệm, triển khai ý tưởng mới nhanh chóng và quyết đoán thông qua dịch vụ công hiệu quả”, Thủ tướng nói.

Quảng Ninh phải trở thành một trong tốp 5 địa phương về cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh của cả nước, phấn đấu tối thiểu có 25.000 doanh nghiệp vào năm 2020, gấp đôi hiện nay.

Bên cạnh đó, Quảng Ninh cần phải tiếp tục giảm bớt khoảng cách giàu nghèo, tạo dựng lòng tin của người dân với chính quyền, tạo môi trường sống và làm ăn an toàn cho doanh nghiệp và người dân.

Đồng thời, tỉnh cần tiếp tục thực hiện tốt công tác an sinh xã hội, tăng cường an ninh và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn; không để xảy ra tình trạng tội phạm, cờ bạc, nhất là trong những dịp cuối năm, lễ, Tết.

Thủ tướng đánh giá cao việc Quảng Ninh xác định chủ đề công tác năm 2017 là: “Tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính; xây dựng nếp sống văn hóa, văn minh” và điều quan trọng là phải đưa chủ đề này vào thực tiễn với những biện pháp, mục tiêu cụ thể.

Cần coi Vân Đồn là “phòng thí nghiệm thể chế”

Cho ý kiến về các kiến nghị của Quảng Ninh, Thủ tướng nhấn mạnh tinh thần phân cấp, giao quyền mạnh mẽ hơn để tỉnh chủ động triển khai các mặt công tác. Các Bộ, ngành phải tạo thuận lợi về mặt cơ chế, chính sách cho địa phương phát triển.

Tại cuộc làm việc, tỉnh Quảng Ninh kiến nghị Thủ tướng báo cáo Bộ Chính trị sớm cho phép thành lập Khu hành chính - kinh tế đặc biệt Vân Đồn; chỉ đạo các Bộ, ngành trình Quốc hội phê chuẩn Luật Khu hành chính - kinh tế đặc biệt trong năm 2017.

Thủ tướng cho biết, tại phiên họp thường kỳ tháng 11 vừa qua Chính phủ biểu quyết, thống nhất việc xây dựng mô hình 3 đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt, trong đó có Khu hành chính – kinh tế đặc biệt Vân Đồn và yêu cầu tỉnh Quảng Ninh sớm hoàn thiện đề án để trình cơ quan có thẩm quyền.

 

Thủ tướng giao Bộ KHĐT chủ trì, phối hợp với Bộ Nội vụ, UBND các tỉnh và các bộ, cơ quan liên quan lập đề nghị xây dựng dự án Luật Khu hành chính - kinh tế đặc biệt, báo cáo Chính phủ cho ý kiến để trình Quốc hội.

Khu kinh tế hành chính – kinh tế đặc biệt Vân Đồn phải giải quyết tốt nhất 3 điểm nghẽn về thể chế, hạ tầng, nguồn nhân lực, Thủ tướng nhấn mạnh và cho rằng, phải coi đây là “phòng thí nghiệm thể chế của Việt Nam” để thu hút phát triển. Mục tiêu là cải thiện môi trường kinh doanh, với câu hỏi đặt ra là làm sao các tỷ phú thế giới phải đến Vân Đồn. Về năng lực cạnh tranh của đặc khu này, Thủ tướng nêu rõ, phải ưu tiên trong việc cải thiện 12 trụ cột của năng lực cạnh tranh quốc gia.

Về kiến nghị ban hành Nghị định kinh doanh casino, Thủ tướng cho biết, các thành viên Chính phủ đã có ý kiến đối với dự thảo Nghị định, các cơ quan chức năng đang trình Chính phủ xem xét, ban hành.

Cũng trong chuyến công tác tại Quảng Ninh, Thủ tướng đã đến thị sát một số dự án tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội của Vân Đồn như: Cảng hàng không Quảng Ninh có tổng vốn đầu tư 7.400 tỷ đồng; Khu phức hợp nghỉ dưỡng giải trí cao cấp Vân Đồn, tổng vốn đầu tư 4.957 tỷ đồng.

10.  Thanh Hằng. Hội nghị trực tuyến Chính phủ với các địa phương triển khai nhiệm vụ phát triển KT-XH năm 2017//http://baoquangninh.com.vn.- Năm 2016.- Ngày 28 tháng 12

.

.

Trong 2 ngày, 28 và 29/12, Thủ tướng Chính phủ Nguyễ

Gọi điện: 0203.6500.163
Facebook Youtube
wiget Chat Zalo